Bài văn mẫu lớp 11: Hình ảnh nhà nho Trần Tế Xương trong bài thơ Thương vợ của ông




Văn mẫu lớp 11: Vẻ đẹp và nhân cách của Tú Xương qua bài thơ Thương vợ gồm dàn ý chi tiết kèm theo 10 bài văn mẫu. Giúp các em học sinh lớp 11 nắm được nội dung chính khi làm văn, tránh đi lạc đề.

Qua đây ta có thể thấy Tú Xương là người rất mực yêu thương và kính trọng vợ. Những cảm xúc mới mẻ được thể hiện bằng những hình ảnh, ngôn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương vừa mới lạ, vừa độc đáo, vẫn rất gần gũi với con người, vẫn có cội nguồn sâu xa trong tâm tưởng. dân tộc. Vậy đây là 10 bài văn mẫu, mời các bạn theo dõi và tải về tại đây. Hãy tham khảo với Viknews nhé.

Bạn Đang Xem: Bài văn mẫu lớp 11: Hình ảnh nhà nho Trần Tế Xương trong bài thơ Thương vợ của ông

Video bài văn mẫu thương vợ

Dàn ý vẻ đẹp nhân cách Tú Xương

I. Giới thiệu

– Trình bày những nét chung về tác giả Trần Tế Xương: ngôi sao lạ tỏa sáng trên bầu trời văn học Việt Nam với những vần thơ mang đậm tư tưởng Nho giáo.

Thương vợ là bài thơ tiêu biểu của Trần Tế Xương. Không chỉ thể hiện thành công hình tượng trung tâm của bà Tú mà đoạn thơ còn thể hiện thành công hình ảnh ông Tú với những phẩm chất đáng quý.

II. Thân bài

1. Anh Tú là người rất yêu vợ

• Ông Tú đồng cảm với những vất vả, nhọc nhằn của bà Tú

– Ông thương bà Tú vì bà phải gồng gánh gia đình, quanh năm bơi “sông mẹ”:

+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không có ngoại lệ

+ Vị trí “mẹ sông”: phần đất nhô ra lòng sông không ổn định.

⇒ Ông Tú thương cho hoàn cảnh lao động vất vả, ngược xuôi, bấp bênh, bấp bênh, bà không những phải nuôi con mà còn phải nuôi cả chồng.

– Anh ấy yêu vợ khi anh ấy phải làm việc vất vả:

+ “Bơi lội”: Sự lam lũ, vất vả, nhọc nhằn, lo toan

+ Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, cô đơn khi làm ăn + khi đi xa: thời gian, không gian rợn ngợp, đầy lo âu, hiểm nguy.

+ “Buổi sớm… đò đông”: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, hẫng hụt. + Sự đông đúc: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc cũng tiềm ẩn nhiều nguy hiểm, lo lắng. Châu Âu

⇒ Tấm lòng dịu dàng của ông Tú trước hoàn cảnh đời thường của bà Tú

• Anh ấy phát hiện và đánh giá cao, khen ngợi những đức tính tốt của vợ

Xem Thêm : Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu (Thu điếu) của Nguyễn Khuyến

– Cảm phục trước sự chăm chỉ nhưng bà Tú vẫn chu đáo với chồng con:

+ “nuôi”: chăm sóc hoàn toàn

+ “đủ năm con với một chồng”: Một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu thốn.

– Anh Tú cảm kích trước sự chăm chỉ, cần cù của vợ:

+ “Một nhân duyên, hai duyên nợ, một số phận”: chấp nhận, không phàn nàn

+ “Dám quản của công”: Đức tính thầm lặng hy sinh cao cả cho chồng con, đức tính cần cù, dũng cảm, nhẫn nại.

⇒ Trần Tế Xương trân trọng nêu cao những phẩm chất cao đẹp của bà Tú: đức tính chịu thương, chịu khó, hết lòng vì chồng, vì con.

2. Anh ý thức được mình là gánh nặng cho vợ và căm phẫn xã hội đẩy phụ nữ vào thế bất công.

• Một người đàn ông trong xã hội phong kiến ​​lẽ ra phải có một sự nghiệp lẫy lừng để lo cho vợ con, nhưng ở đây, ông Tú đã ý thức được mình là gánh nặng của vợ.

+ “Nuôi năm con một chồng”: Tú Xương ý thức được hình ảnh trọn vẹn của mình, nhận mình có khuyết điểm, phải sống ăn bám, để vợ phải nuôi con, người chồng coi mình là con cá biệt.

+ “Một duyên, hai nợ”: Tú Xương cũng ý thức được mình là “món nợ” mà bà Tú phải gánh.

+ “Có chồng thì thờ ơ như nhau”: Tú Xương ý thức được rằng, sự thờ ơ của mình cũng là một biểu hiện của thói đời.

Từ tấm lòng thương vợ, Tú Xương còn nguyền rủa thói bạc tình đen đủi đẩy người phụ nữ vào cảnh bất công

+ “Cha mẹ có thói hư tật xấu”: tố cáo hiện thực xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá ép buộc, để người phụ nữ phải chịu nhiều vất vả.

Không bằng lòng với thực tại, Tú Xương chửi bới vì vợ, hận xã hội đẩy người phụ nữ vào cảnh bất công.

III. Kết thúc

– Khẳng định lại những nét nghệ thuật tiêu biểu góp phần thể hiện thành công hình tượng ông Tú

– Bày tỏ suy nghĩ của bạn

Thuong vo 700 Thuong vo 700

Hình ảnh nhà nho Trần Tế Xương trong bài thơ Thương vợ của ông

Đề bài: Hình ảnh nhà nho Trần Tế Xương trong bài thơ Thương vợ của ông

Xem Thêm : Top 9 Bài văn nghị luận về chủ đề “Hãy sống là chính mình” (lớp 12) hay nhất

Người phụ nữ từ rất lâu đã trở thành đề tài quen thuộc trong thi ca. Song mỗi thời đại khác nhau, dưới góc nhìn của những tác giả khác nhau họ lại hiện lên với những hình ảnh riêng. Tế Xương cũng là một nhà thơ tiêu biểu khi viết về đề tài người phụ nữ với bài thơ “Thương vợ”. Đặc biệt qua bài thơ ta không chỉ thấy được hình ảnh người phụ nữ mà còn cảm nhận được hình ảnh của nhà nho Trần Tế Xương.

Nói đến nhà nho là nói về một thời vang bóng đã qua. Nhà nho là những người có tri thức trong xã hội xưa, đọc sách thánh hiền và theo Khổng Tử, giúp ích cho nhân dân, cho đất nước. Trong bài thơ này, chúng ta cũng nhìn thấy ở Tế Xương hình ảnh của một nhà nho nhưng thêm nhiều đặc điểm yếu tố tiến bộ, mới mẻ hơn.

unnamed unnamed

Tú Xương là một nhà nho, cũng đèn sách bao năm để đi thi, mong đến ngày đỗ đạt công danh. Ngày đó, người ta ít viết về người vợ, nhất là khi vợ đang còn sống. Các thi nhân chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời, có nghĩa là khi người vợ đi vào thiên thư mới được đi vào địa hạt thi ca. Chính vì thế khi đặt bút viết về vợ của mình, Tú Xương đã có điểm khác biệt với những nhà nho cùng thời.

Trong bài thơ, Tú Xương đã dùng tình yêu thương và biết ơn để khắc họa hình ảnh bà Tú với những đường nét rõ ràng nhất. Ông luôn dõi theo những vất vả gian truân của vợ mình, thương thì thương lắm nhưng chẳng biết lằm gì, đành gửi gắm vào trong thi ca. Bằng những lời thơ chân thành, mộc mạc, Tú Xương đã khắc họa hình ảnh bà Tú với lòng yêu thương da diết. từng câu chữ, từng ý thơ đều chất chưa bao tình cảm, bao yêu thương và lòng biết ơn:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Có thể thấy qua lời kể của nhà thơ, người vợ vốn ở nhà nội trợ, cần được chồng chở che nay lại là trụ cột gia đình. Bà Tú vừa nuôi con, vừa nuôi chồng. Vất vả quanh năm suốt tháng, lặn lội những chuyến đò đông, buôn bán ở mom sông đầy nguy cơ và bất trắc. Vậy mà “Cơm hai bữa cá kho rau muống. Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô”, bà lo cho chồng cho con chu đáo, vẹn toàn. Tú Xương không xuất hiện trong câu thơ nhưng chảy trong đó là tình cảm của ông.

Hiếm khi có một nhà nho không rập khuôn những lễ giáo, qui định khắt khe của đạo nho về tư tưởng trọng người có học, Tú Xương đã thẳng thắn nhìn nhận sự vô dụng của bản thân. Ông tự trào phúng bản thân, trào phúng xã hội và âm thầm bày tỏ tấm lòng thương yêu và tri ân vợ.

Tú Xương đã không gộp mình với con để nuôi mà tách riêng rạch ròi là nhắc nhở bản thân, để gửi gắm lòng biết ơn đến vợ cảu mình. Ông tự trách mình, tự lên án bản thân. Dẫu viết “Một duyên, hai nợ, âu đành phận” nhưng ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là duyên một còn nợ là chín. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Duyên ít, nợ nhiều.

Tú Xương đã phải thốt lên:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:

Có chồng hờ hững cũng như không!”

Ông chửi thói đời bạc bẽo – nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Chửi cả người chồng có cũng như không là mình, chửi sự hờ hững của ông với vợ con khiến bà Tú chịu cực chịu khổ. Đây chính là tư tưởng của một nhà nho tiến bộ, dám nhìn nhận và lên án bản thân mà không quy chụp theo lễ giáo gia trưởng bất công.

Ở cái xã hội ràng buộc người phụ nữ “Xuất giá tòng phu”, “phu xướng, phụ tuỳ” mà có một nhà thơ dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là kẻ ăn bám vợ. Ông không những nhận ra thiếu sót mà còn thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm. Một nhà nho tiến bộ như thế thật đáng trân trọng.

Bà Tú có thể đã chịu rất nhiều nghiệt ngã, cay đắng của cuộc đời nhưng bà lại có được niềm hạnh phúc mà bao người vợ khi ấy không có được. Ngay lúc còn sống, bà đã đi vào bài thơ của chồng với tất cả những gì đẹp nhất trong niềm yêu thương, trân trọng của chồng. Để rồi từ đó giúp người đọc nhận ra hình ảnh nhà nho thực sự trong con người Tú Xương.

Và như vậy, bài thơ “Thương vợ” không chỉ ngợi ca vẻ đẹp người phụ nữ tần tảo chịu thương chịu khó vì gia đình, vị tha và đáng trân trọng mà còn tái hiện hình ảnh nhà nho Tế Xương –một người vừa có học thức vừa có tư tưởng tiến bộ, đáng trân trọng.

Xem thêm : Bài văn mâu lớp 10 Kể lại một kỉ niệm sâu sắc về tình cảm gia đình, bạn bè, thầy cô

Nguồn: https://truonghuynhngochue.edu.vn
Danh mục: Tổng hợp

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button